Bài giảng Ngữ văn 11 - Tuần 23: Chiều tối (Mộ) - Năm học 2022-2023 - Lan Phương
I. Dàn Ý:
1. Mở bài:
Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
2. Thân bài:
* Khái quát chung:
Bài thơ “Chiều tối” là một trong những bài thơ tiêu biểu trong tập “Nhật kí trong tù” của Bác.
- Hoàn cảnh sáng tác: năm 1942, khi Hồ Chí Minh bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam và áp giải từ nhà lao Tĩnh Tây đến Thiên Bảo (Trung Quốc), bài thơ được sáng tác trong một buổi chiều chuyển ngục.
a. Hai câu thơ đầu: Bức tranh thiên nhiên núi rừng
* Điểm nhìn: hướng tầm mắt lên không trung
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Ngữ văn 11 - Tuần 23: Chiều tối (Mộ) - Năm học 2022-2023 - Lan Phương", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHIỀU TỐI HỒ CH Í MINH Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ, Cô vân mạn mạn độ thiên không; Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc, Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng Dịch thơ: (Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không Cô em xóm núi xay ngô tối, Xay hết lò than đã rực hồng ) I. Dàn Ý : 1. Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm. 2. Thân bài: * Khái quát chung: Bài thơ “Chiều tối” là một trong những bài thơ tiêu biểu trong tập “Nhật kí trong tù” của Bác. - Hoàn cảnh sáng tác: năm 1942, khi Hồ Chí Minh bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam và áp giải từ nhà lao Tĩnh Tây đến Thiên Bảo (Trung Quốc), bài thơ được sáng tác trong một buổi chiều chuyển ngục. a. Hai câu thơ đầu: Bức tranh thiên nhiên núi rừng * Điểm nhìn: hướng tầm mắt lên không trung * Hình ảnh cánh chim trời: Trong thi ca xưa, cánh chim thường đại diện cho sự cô đơn, lạc lõng, mất phương hướng. - Trong thơ Bác: + Cánh chim đang bay về tổ sau một ngày dài vất vả kiếm ăn. → Khắc họa sự sống gần gũi, bình yên. + Cánh chim “mỏi”: vừa thấy được sự chuyển động bên ngoài, vừa thể hiện được trạng thái bên trong của sự vật. → Thể hiện cảm nhận tinh tế của Bác. → Hình ảnh thơ mang màu sắc tâm trạng: Tấm lòng đồng cảm giữa Bác với cảnh vật thiên nhiên: sau một ngày chịu đày ải, Người muốn được dừng chân nghỉ ngơi. * Hình ảnh chòm mây: Trong văn học cổ điển: Là chất liệu quen thuộc trong thi ca cổ điển. - Trong thơ Bác: + “Cô vân”: lẻ loi, cô đơn giữa bầu trời. ( dịch thơ không sát nghĩa ) + Từ “mạn mạn” diễn tả sự chậm rãi trong cách di chuyển của chòm mây. → Gợi không gian cao rộng, khoáng đạt. → Gợi bước chân chậm rãi, ung dung và sự thư thái, ung dung trong tâm hồn. → Nhấn mạnh và làm nổi bật tinh thần lạc quan, ý chí kiên cường của Hồ Chí Minh trong chuỗi ngày bị đày ải. b. Hai câu thơ sau - Hình ảnh con người trong lao động * Điểm nhìn: mặt đất → Đưa người đọc từ không gian thiên nhiên về với đời sống con người, từ trên cao dịch chuyển xuống dưới mặt đất. * Hình ảnh cô gái xay ngô: - Hình ảnh con người trong lao động trở thành trung tâm bài thơ.- Điệp ngữ liên hoàn và đảo từ: “ma bao túc” → “bao túc ma”: + Khắc họa vòng quay liên tục, nhịp nhàng của cối xay.+ Thể hiện sức sống, sự khỏe khoắn của người lao động. * Hình ảnh lò than rực hồng: Khi cô gái vừa kết thúc công việc xay ngô thì lò than đã rực hồng, đánh dấu sự chuyển đổi từ chiều tối sang tối hẳn. - Từ “hồng”: + Trở thành nhãn tự của bài thơ hai mươi tám chữ. + Làm sáng rực cả bài thơ, xua đi cái không khí tối tăm, hiu quạnh miền rừng núi và nỗi cô đơn trong lòng Người. + Đại diện cho màu của lí tưởng cách mạng trong người chiến sĩ, ấm nóng, tràn đầy nhiệt huyết, sẵn sàng vượt qua nghịch cảnh tối tăm để vụt sáng. → Đặc trưng thơ của Hồ Chí Minh: Sự vận động từ bóng tối sang ánh sáng, luôn tích cực và tươi sáng. c. Đánh giá Về nội dung: Bài thơ đã thể hiện tình yêu thiên nhiên, cuộc sống, con người cũng như tinh thần lạc quan, ung dung của Bác trong hoàn cảnh ngục tù khó khăn. - Về nghệ thuật: + Sử dụng bút pháp trữ tình tinh tế.+ Kết hợp giữa màu sắc cổ điển và hiện đại. 3. Kết bài: Khẳng định giá trị bài thơ. Puskin từng quan niệm: “Cuộc sống là cánh đồng màu mỡ cho thơ bén rễ sinh sôi” . Và “Chiều tối” của HCM là bài th ơ mang đậm trải nghiệm và quá trình hoạt động cách mạng của Bác. Bài thơ được viết trong thời điểm gần kết thúc của một chuyến chuyển lao. Bài thơ là một bức tranh vẽ cảnh chiều tối nơi núi rừng – cảnh đẹp bởi nó ánh lên sự sống ấm áp của con người. DẪN BÀI THƠ .. Hồ Chí Min h là vị lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam và toàn thể các dân tộc trên thế giới, Người cũng là một danh nhân văn hóa thế giới, một nhà kiệt xuất chính trị, nhà quân sự tài ba, vị anh hùng giải phóng dân tộc, vị lãnh tụ vĩ đại đồng thời là nhà văn, nhà thơ lớn của văn học Việt Nam nói riêng và văn học thế giới nói chung . Người luôn quan niệm tác phẩm văn chương phải có tính chân thật, chú ý đến đối tượng thưởng thức mà tránh lối viết cầu kì, xa lạ, nặng nề, và hơn hết người đến với văn chương với phương diện là một hoạt động tinh thần phong phú, phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp Cách mạng. Bài thơ Chiều tối, bộc lộ một tâm hồn thi nhân nhạy cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên, một tấm lòng nhân hậu đối với con người, một phong thái ung dung luôn hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai. Hay nói đúng hơn đây là một thực thể của sự kết hợp hài hoà giữa màu sắc cổ điển và tinh thần hiện đại. Cảnh chiều tối là một đề tài quen thuộc của văn chương. Khung cảnh buổi chiều về tối thường dễ sinh tình vì thế, buổi chiều đã đi vào bao áng thơ kim cổ, làm nên những vần thơ tuyệt tác. Thơ chiều cổ điển thường man mác một nỗi buồn đìu hiu, hoang vắng trong sự tàn tạ của thời gian, hoặc trĩu nặng nỗi buồn tha hương lữ thứ. Ở đây, bằng vài nét chấm phá của bút pháp ước lệ tượng trưng tác giả đã dựng nên bức phông lớn làm nền cho cảnh chiều: Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ, Cô vân mạn mạn độ thiên không; (Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không) “Cánh chim” và “chòm mây” là hai hình ảnh quen thuộc thường xuất hiện trong thơ chiều xưa và nay. Cho nên, đó chỉ là hai hình ảnh của không gian mà đã mang theo ý nghĩa của thời gian. Cánh chim ở đây được lấy từ thế giới nghệ thuật cổ phương Đông. Trong thế giới thẩm mỹ ấy, hình ảnh cánh chim bay về rừng đã ít nhiều có ý nghĩa biểu tượng ước lệ diễn tả cảnh chiều: “Phi yến thu lâm”; “Quyện điểu quy lâm” là những nhóm từ thường thấy trong thơ chữ Hán Trong “Truyện Kiều”, khi miêu tả cảnh chiều, Nguyễn Du đã điểm vào bức tranh hình ảnh cánh chim bay về rừng: “Chim hôm thoi thót về rừng”. Trong thơ Bà Huyện Thanh Quan cũng thế: “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi” và Huy Cận lại cảm thấy bóng chiều như đang sà xuống từ cánh chim đang nghiêng dần về cuối chân trời: “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”. Hình như trong cảm nhận của các thi nhân xưa thì khi miêu tả cảnh chiều mà không có hình ảnh cánh chim thì bóng chiều chưa rõ. Cánh chim trong thơ xưa thường chỉ là một chi tiết nghệ thuật thuần tuý để gợi tả cảnh chiều thế thôi và thường gợi nên cảm giác về sự xa xăm, phiêu bạt, chia lìa: “Chúng điểu cao phi tận” – Lí Bạch “Thiên sơn điểu phi tuyệt” – Liễu Tông Nguyên Chúng ta đều nhận thấy cánh chim trong thơ của Lí Bạch và Liễu Tông Nguyên đều “Phi tuyệt”, “Phi tận”. Tất cả đều không có điểm dừng mà ở vào trạng thái bay vào chốn xa xăm, vô tận, gợi lên một ý niệm siêu hình nào đó. Còn cánh chim trong bài thơ “Chiều tối” của Bác lại có phương hướng, điểm dừng, mục đích bay rõ ràng: Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ (Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ) Như vậy Bác đã đưa cánh chim từ thế giới siêu hình trở về với thế giới hiện thực. Ta nhận thấy trong cách nhìn của Bác là một cách nhìn đầy yêu thương, trìu mến trước biểu hiện nhỏ nhoi của sự sống. Nhìn cánh chim đang bay, Bác cảm nhận được sự mệt mỏi của đôi cánh sau một ngày đường hoạt động. Trong chiều sâu tâm hồn của Bác chính là lòng yêu thương sự sống, cảm quan của Bác chính là cảm quan nhân đạo. Câu thơ thứ hai cũng mang đậm nét Đường thi. Nó rất gần với câu thơ: “Cô vân độc khứ nhàn” của Lí Bạch . Hình ảnh chòm mây cô độc trôi giữa bầu trời đã trở thành một mô tuýp quen thuộc trong thơ xưa, nó thường gợi lên cái cô độc thanh cao, sự phiêu diêu, thoát tục và nỗi khắc khoải của con người trước cõi hư không. Còn trong bài “Chiều tối” của Bác, hình ảnh chòm mây cô độc trôi nhè nhẹ qua bầu trời chỉ là một nét vẽ tạo nên cái không gian cao rộng của cảnh trời chiều nơi miền rừng núi . Bầu trời hôm ấy phải thật cao, thật trong xanh ta mới thấy được hình ảnh chòm mây cô độc ấy gợi nên hình ảnh cô độc nơi đất khách, quê người của Bác. Mỗi một chi tiết của cảnh chiều đều nhuốm màu tâm trạng. Cánh chim mỏi tìm về tổ ấm, còn người tù thì mệt mỏi sau một ngày đường mà vẫn chưa có được chỗ dừng chân. Chòm mây lẻ loi trôi lững lờ trên tầng không, còn người tù thì cô đơn giữa một buổi chiều nơi đất khách. Hai câu thơ đạt đến mức vi diệu của lối tả cảnh ngụ tình . Ơ đó ta bắt gặp một tâm hồn giàu cảm xúc trước thiên nhiên và sự sống. Từ đó ta thấy được một nghị lực phi thường và đó cũng chính là chất thép trong thơ của Bác. Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc, Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng (Cô em xóm núi xay ngô tối, Xay hết lò than đã rực hồng) “xóm núi” là hình ảnh giản dị biểu tượng cho sự sống bình yên của con người. Xóm núi như đẹp hơn, ấm áp hơn với hình ảnh người thiếu nữ. Vẻ đẹp trẻ trung đầy sức sống của người thiếu nữ với tư thế lao động (xay ngô) trở thành tâm điểm của bức tranh thiên nhiên buổi chiều. Điều đáng lưu ý ở đây là hình tượng người thiếu nữ trong thơ Bác hoàn toàn khác với hình tượng người thiếu nữ trong thơ xưa. Người phụ nữ trong thơ xưa thì thường được ví như “Liễu yếu đào tơ” và sống trong cảnh “Phòng khuê khép kín”, chỉ biết “cầm, kì, thi, hoạ” là đủ. Còn người thiếu nữ trong thơ Bác thì gắn liền với công việc lao động bình dị, đời thường, khỏe khoắn đầy sức sống. Phải chăng chính cái sức sống ấy của người thiếụ nữ đã làm nên vẻ đẹp lung linh cho bức tranh. Trong thơ xưa, những bức tranh vẻ cảnh chiều đều có bóng dáng con người nhưng sao lẻ loi, cô độc và hiu hắt quá. Con người ở đây mang nặng một nỗi niềm hoài cổ, một nỗi sầu muộn: “Lom khom dưới núi tều vài chú, Lác đác bên sông chợ mấy nhà” (Qua Đèo Ngang – Bà Huyện Thanh Quan) Hay: “Gác mái ngư ông về viễn phố, Gõ sừng mục tử lại cô thôn” (Chiều Hôm Nhớ Nhà – Bà Huyện Thanh Quan) còn con người trong thơ Bác, lại là con người lao động đầy sức sống. Chính hai từ “thiếu nữ” đã làm bừng lên sức sống của bức tranh. Cô gái miệt mài xay ngô và hình như cô không chú ý đến những gì xung quanh mình. Cối xay vẫn cứ quay và quay tít “ma bao túc” rồi “bao túc ma” và khi ngô đã xay xong “bao túc ma hoàn” thì cô mới nhìn thấy “lò than đã rực hồng”. Hình ảnh “lò than đã rực hồng” hiện lên trong đêm tối càng làm nổi bật hình ảnh người thiếu nữ. Toàn bộ cảnh thiên nhiên đang chìm trong màu xám nhạt chuyển sang màu tối. Cũng vì thế hình ảnh lò than rực hồng có sức lôi cuốn đặc biệt. Bài thơ kết thúc bằng chữ “hồng”, có thể nói đó chính là chỗ đẹp nhất của bài thơ. Đó chính là ánh lửa hồng của cuộc sống đầm ấm, hạnh phúc gia đình, ánh lửa hồng của sự sống, của niềm lạc quan. Chữ “hồng” đặt ở cuối bài thơ soi rõ vẻ đẹp của người thiếu nữ, toả ánh sáng và hơi ấm xua đi cái buồn vắng của bức tranh chiều tối nơi rừng núi. Với chữ “hồng” đó có ai còn cảm giác nặng nề,mệt mỏi, nhạc nhằn nữa đâu mà chỉ thấy màu đỏ đã nhuốm lên cả bóng đêm, cả thân hình lao động của cô gái đáng yêu kia. Đó là màu đỏ của tình cảm Bác (Nguyễn Trung Thông) Hai câu thơ đã cho ta thấy được cái nhìn ấm áp đầy yêu thương, trân trọng của Bác đối với con người lao động. Buổi “Chiều tối” nơi miền rừng núi quạnh hiu, hoang vắng, lẽ ra rất đỗi buồn bã, thê lương trước mắt người tù bị xiềng xích, bị giải đi với biết bao nỗi gian lao vất vả, nhưng trái lại đó là tiếng reo vui. Chữ “hồng” ở cuối bài đã làm nên tiếng reo vui ấy, tạo cho bài thơ âm hưởng nồng ấm, dạt dào. NGHỆ THUẬT: Maiacopxki từng nhận xét rằng "Làm thơ là cân một phần nghìn milligram quặng chữ ", thật vậy làm thơ cái đắt giá nhất có lẽ là ở ngôn ngữ, ngôn ngữ tả ít mà gợi nhiều và bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh là minh chứng rõ nét cho điều đó. Với những hình ảnh thơ đậm chất cổ điển, cùng với bút pháp chấm phá trong phong cách xây dựng đã giúp người đọc hình dung ra được một bức tranh thiên nhiên, con người chỉ bằng vài nét vẽ. Tác giả đã thực sự xuất sắc trong việc dùng những từ ngữ đắt giá, chân thực nhưng giàu sức gợi, giàu cảm xúc chạm đến tâm hồn người đọc. KẾT BÀI 1: “Chiều tối” là một tác phẩm đậm đà màu sắc cổ điển mà cũng rất hiện đại, thể hiện một cách tự nhiên và phong phú vẻ đẹp của hình ảnh người tù – thi sĩ, người chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh. Bài thơ đã thể hiện tình yêu thiên nhiên tha thiết của Bác. Điều đặc biệt ở đây là cảm quan thiên nhiên của Bác gắn liền với cảm quan nhân đạo, cảm quan về sự sống. Đó còn là sự lạc quuan về bức chân dung tự hoạ của người chiến sĩ cách mạng: Nay ở trong thơ nên có thép Nh à thơ cũng phải biết xung phong KẾT BÀI : "Nhà thơ, ngay cả các nhà thơ vĩ đại nhất cũng phải đồng thời là những nhà tư tưởng " đó là lời nhận xét của Bêlinxki về tư cách, về cái tâm của một người nghệ sĩ. Và Hồ Chí Minh thực sự là một nhà thơ vĩ đại, Người đã phát hiện ra vẻ đẹp con người nơi miền sơn cước khi đang lao động, đó là một vẻ đẹp lao động khỏe khoắn, hăng say, con người làm chủ trước thiên nhiên, giúp thiên nhiên trở nên có hồn hơn. Và người thiếu nữ trong thơ Bác mang một nét đẹp mới, gắn liền với công việc lao động bình dị, đời thường đầy sức sống chứ không giống quan điểm xưa kia đó là phải biết "cầm, kỳ, thi, họa", được ví như "liễu yếu đào tơ", đó là một nhân cách, một tâm hồn nhạy cảm, hiện đại mới phát hiện ra điều đó.
Tài liệu đính kèm:
- bai_giang_ngu_van_11_tuan_23_chieu_toi_mo_nam_hoc_2022_2023.pptx