Ngữ văn 11 - Đề cương ôn tập

Ngữ văn 11 - Đề cương ôn tập

Hàn Mặc Tử là một trong những cây bút xuất sắc của dòng văn học thơ ca lãng mạn. Thơ của ông mang nhiều sắc thái khác nhau, có những vẫn thơ thấm đẫm nước mắt, nhưng cũng có những vần thơ vô cùng trong trẻo, tinh khiết. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong những bài thơ hay nhất của Hàn Mặc Tử về chủ đề tình yêu. Bài thơ được sáng tác khi ông đã mắc bệnh nặng, vì thế mang một vẻ đượm buồn sâu sắc.

Mở đầu bài thơ là câu hỏi:

“ Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Thôn Vĩ Dạ nằm bên bờ sông Hương thơ mộng, đã đi vào trong rất nhiều bài thơ, bài văn. Câu thơ là một câu hỏi, như một lời trách nhẹ nhàng, nhưng cũng có thể coi là một lời mời về thăm thôn Vĩ để thưởng thức những cảnh sắc tươi đẹp nơi đây. Và quả thật, những câu thơ tiếp theo là những câu thơ nói về cảnh vật thôn Vĩ:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Hàng cau là một điểm đặc trưng của các thôn xóm Việt Nam, bởi nhân dân ta đã có tập tục ăn trầu từ ngàn đời nay. Cây cau cũng gắn với rất nhiều câu chuyện về tình yêu đôi lứa mà ông cha ta đã kể từ ngàn đời nay. Không chỉ có thế, hàng cau trong thơ Hàn Mặc Tử còn có thêm cả ánh nắng mới lên biểu sớm, hay chính là biểu tượng của sức sống của niềm vui, của tuổi trẻ và tình yêu.

 

docx 3 trang lexuan 4370
Bạn đang xem tài liệu "Ngữ văn 11 - Đề cương ôn tập", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hàn Mặc Tử là một trong những cây bút xuất sắc của dòng văn học thơ ca lãng mạn. Thơ của ông mang nhiều sắc thái khác nhau, có những vẫn thơ thấm đẫm nước mắt, nhưng cũng có những vần thơ vô cùng trong trẻo, tinh khiết. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong những bài thơ hay nhất của Hàn Mặc Tử về chủ đề tình yêu. Bài thơ được sáng tác khi ông đã mắc bệnh nặng, vì thế mang một vẻ đượm buồn sâu sắc.
Mở đầu bài thơ là câu hỏi:
“ Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Thôn Vĩ Dạ nằm bên bờ sông Hương thơ mộng, đã đi vào trong rất nhiều bài thơ, bài văn. Câu thơ là một câu hỏi, như một lời trách nhẹ nhàng, nhưng cũng có thể coi là một lời mời về thăm thôn Vĩ để thưởng thức những cảnh sắc tươi đẹp nơi đây. Và quả thật, những câu thơ tiếp theo là những câu thơ nói về cảnh vật thôn Vĩ:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Hàng cau là một điểm đặc trưng của các thôn xóm Việt Nam, bởi nhân dân ta đã có tập tục ăn trầu từ ngàn đời nay. Cây cau cũng gắn với rất nhiều câu chuyện về tình yêu đôi lứa mà ông cha ta đã kể từ ngàn đời nay. Không chỉ có thế, hàng cau trong thơ Hàn Mặc Tử còn có thêm cả ánh nắng mới lên biểu sớm, hay chính là biểu tượng của sức sống của niềm vui, của tuổi trẻ và tình yêu.
Nhìn xa xa hơn, đó là cả một khu vườn tươi tốt, xanh um. Vườn cây được chăm sóc kĩ lưỡng nên tươi tốt, xanh um. Tác giả dùng chữ “mướt”, vừa để chỉ sự óng ả, tươi tốt của lá, vừa để chỉ màu xanh ngọc đẹp đẽ của lá. Ở đó ánh lên một sự khỏe mạnh, chứa chan đầy sức sống của cảnh vật cũng như con người nơi đây.
Giữa khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp, đầy sức sống, đã có bóng dáng con người xuất hiện, khiến cho cảnh càng trở nên sinh động hơn. Trúc là biểu trưng cho người quân tử, lại che ngang khuôn mặt chữ điền của ai đó, có thể là người khách đến thăm thôn Vĩ chăng? Thật là hai hình ảnh thật đẹp, hài hòa, làm cho khung cảnh thêm vài phần thi vị.
Đến những câu thơ tiếp theo, cảnh vật càng ngày càng mở rộng ra, thấy gió, thấy mây, thấy dòng nước sông Hương lững lờ:
“Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”
Hai câu thơ tả cảnh thiên nhiên, nhưng cũng chứa đựng trong đó nỗi buồn của con người, khiến cho cảnh vật cũng trở nên hiu hắt. Thường thì gió thổi mây bay, mây với gió thường đi với nhau, nhưng ở đây gió với gió, mây với mây lại tách riêng ra, mỗi vật một hướng. Dòng nước cũng buồn hiu hắt với những bông hoa bắp nhẹ nhàng lay động ở hai bên bờ. Đây là cảnh tả thực ở thôn Vĩ, cảnh vật đều thơ mộng, nhẹ nhàng chuyển động, nhưng nhà thơ cũng lồng vào trong đó tâm trạng của mình, một nỗi buồn man mác vì nuối tiếc, không thể về gặp người trong mộng.
Hàn Mặc Tử là một người rất yêu trăng, rất nhiều bài thơ của ông xuất hiện hình ảnh trăng. Trong bài thơ này cũng vậy. Hình ảnh vầng trăng hiện lên một cách độc đáo:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chờ trăng về kịp tối nay?”
Vầng trăng là biểu tượng của cái đẹp, của thanh bình, của hạnh phúc. Thế nhưng, nhà thơ lại hỏi một cách day dứt, liệu ai đó có kịp chở trăng về? Là hỏi ai, hay hỏi chính mình. Câu hỏi bày tỏ một nỗi niềm hoang mang, mặc cảm của nhà thơ, về sự lỡ dở, muộn màng, vô phận với tình yêu.
Dòng thời gian trong bài thơ trôi thật nhanh. Vừa buổi sáng với khu vườn mướt xanh như ngọc, thoắt cái lại đến tối bên bến trăng, bến mơ.
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra”
Vì nhớ mong da diết, nên vị khách đường xa đi cả vào trong giấc mơ của Hàn Mặc Tử. Hình ảnh trong mơ vừa gần lại vừa xa, vừa thân thiết nhưng lại xa không cách nào với tới. Màu áo trắng là màu đặc trưng của áo dài – đồng phục quen thuộc của nữ sinh Huế. Mối tình chưa lời ước hẹn của nhà thơ với người con gái trong trắng, tinh khôi vẫn đau đáu trong tim ông chẳng bao giờ phai nhạt.
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Giữa mênh mông khói sương mờ ảo, hay cũng chính là giữa dòng đời nhiều hư ảo, liệu trong tâm trí đối phương còn nhớ đến hình bóng của mình hay không? Câu hỏi cuối như hỏi “ai”, nhưng cũng là tự vấn chính mình. Chỉ có lòng dạ này ghi tạc, chứ cuộc sống ngắn ngủi, khiến ông phải nuối tiếc quá nhiều về mối tình còn dang dở. Đau đớn thay!
Tình yêu trong thơ Hàn Mặc Tử, đẹp, nhưng buồn quá! “Đây thôn Vĩ Dạ” là một bức tranh đẹp về cảnh thôn Vĩ bên bờ sông Hương thơ mộng. Trong khi mắc căn bệnh hiểm nghèo, nhưng không vì thế mà trong bài thơ thấm đượm một nỗi tuyệt vọng sâu sắc. Ta chỉ thấy đâu đó sự nuối tiếc đối với sự sống ngắn ngủi, với cuộc đời dang dở mà thôi. Ta càng thấy khâm phục hơn, một nhân cách cao đẹp, dù trong khó khăn nhưng vẫn dùng những câu chữ chau chuốt nhất, những tình cảm đẹp nhất để gửi đến người thương của mình.

Tài liệu đính kèm:

  • docxngu_van_11_de_cuong_on_tap.docx