Giáo án Ngữ văn Lớp 11 - Dàn ý: Tràng giang
I. Khái quát tác giả, hoàn cảnh sáng tác Tràng Giang
Trước khi đi vào dàn ý chi tiết phân tích bài thơ Tràng Giang, chúng ta hãy cùng khái quát qua thông tin về tác giả, hoàn cảnh sáng tác và ý nghĩa nhanh đề của bài thơ:
1. Tác giả Huy Cận (1919 – 2005)
– Huy Cận sinh ra trong một gia đình nhà Nho nghèo ở tỉnh Hà Tĩnh.
– Lúc nhỏ, ông theo học ở quê. Đến khi học trung học, ông học tại Huế, sau đó thi đậu tú tài Pháp rồi chuyển ra Hà Nội học trường Cao đẳng Canh nông.
– Ông có thơ đăng báo từ năm 15 tuổi và trở nên nổi tiếng qua nhiều tác phẩm, đặc biệt là tập thơ “Lửa thiêng”.
– Trước Cách mạng, ông được biết đến như một thi sĩ hàng đầu trong phong trào Thơ mới. Thơ của ông có nỗi ám ảnh thường trực là nỗi buồn của nhân thế, nỗi sầu bi kéo dài.
– Sau Cách mạng, ông là nhà thơ tiêu biểu với tiếng thơ yêu đời, lạc quan, căng tràn sức sống.
2. Hoàn cảnh sáng tác Tràng Giang
Bài thơ được sáng tác vào một chiều thu năm 1939, khi Huy Cận đứng ở bờ Nam bến Chèm sông Hồng ngắm cảnh. Chính cái không gian mênh mang của sông Hồng và suy nghĩ về kiếp người nhỏ bé, trôi nổi, vô định đã gợi lên cảm hưng sáng tác bài thơ này.
3. Ý nghĩa nhanh đề và lời đề tựa bài thơ Tràng Giang
– Nhan đề: Ngay từ thi đề, Huy Cận đã khéo léo gợi lên vẻ đẹp cổ điển mà hiện đại cho bài thơ. “Tràng Giang” là một cách nói chệch đầy sáng tạo của Huy Cận. Hai âm “ang” đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát. Hai chữ “tràng giang” mang sắc thái cổ điển trang nhã, gợi liên tưởng về dòng Trường Giang trong Đường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng, dòng sông của tâm tưởng.
– Lời đề tựa: Nhấn mạnh không gian mênh mông và nỗi nhớ sâu thẳm trong lòng người.
DÀN Ý: TRÀNG GIANG 11 -Huy Cận- I. Khái quát tác giả, hoàn cảnh sáng tác Tràng Giang Trước khi đi vào dàn ý chi tiết phân tích bài thơ Tràng Giang, chúng ta hãy cùng khái quát qua thông tin về tác giả, hoàn cảnh sáng tác và ý nghĩa nhanh đề của bài thơ: 1. Tác giả Huy Cận (1919 – 2005) – Huy Cận sinh ra trong một gia đình nhà Nho nghèo ở tỉnh Hà Tĩnh. – Lúc nhỏ, ông theo học ở quê. Đến khi học trung học, ông học tại Huế, sau đó thi đậu tú tài Pháp rồi chuyển ra Hà Nội học trường Cao đẳng Canh nông. – Ông có thơ đăng báo từ năm 15 tuổi và trở nên nổi tiếng qua nhiều tác phẩm, đặc biệt là tập thơ “Lửa thiêng”. – Trước Cách mạng, ông được biết đến như một thi sĩ hàng đầu trong phong trào Thơ mới. Thơ của ông có nỗi ám ảnh thường trực là nỗi buồn của nhân thế, nỗi sầu bi kéo dài. – Sau Cách mạng, ông là nhà thơ tiêu biểu với tiếng thơ yêu đời, lạc quan, căng tràn sức sống. 2. Hoàn cảnh sáng tác Tràng Giang Bài thơ được sáng tác vào một chiều thu năm 1939, khi Huy Cận đứng ở bờ Nam bến Chèm sông Hồng ngắm cảnh. Chính cái không gian mênh mang của sông Hồng và suy nghĩ về kiếp người nhỏ bé, trôi nổi, vô định đã gợi lên cảm hưng sáng tác bài thơ này. 3. Ý nghĩa nhanh đề và lời đề tựa bài thơ Tràng Giang – Nhan đề: Ngay từ thi đề, Huy Cận đã khéo léo gợi lên vẻ đẹp cổ điển mà hiện đại cho bài thơ. “Tràng Giang” là một cách nói chệch đầy sáng tạo của Huy Cận. Hai âm “ang” đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát. Hai chữ “tràng giang” mang sắc thái cổ điển trang nhã, gợi liên tưởng về dòng Trường Giang trong Đường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng, dòng sông của tâm tưởng. – Lời đề tựa: Nhấn mạnh không gian mênh mông và nỗi nhớ sâu thẳm trong lòng người. II. Dàn ý chi tiết phân tích bài thơ Tràng Giang Về bố cục, nội dung bài Tràng Giang được chia thành 4 phần: Phần 1 (khổ thơ 1): Khung cảnh sông nước mênh mông, bất tận. Phần 2 (khổ 2): Cảnh cồn bến hoang vắng trong nắng chiều. Phần 3 (khổ 3): Cảnh bèo trôi, bờ xanh hoang vắng. Phần 4 (khổ 4): Tâm sự nhớ quê và nỗi niềm của nhà thơ. 1. Dàn ý phân tích khổ 1 Tràng Giang “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp, Con thuyền xuôi mái nước song song. Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả; Củi một cành khô lạc mấy dòng.” Với âm điệu nhịp nhàng, trầm buồn, các từ láy đặc sắc, đối ý, hình ảnh độc đáo, chi tiết mới mẻ, Huy Cận đã phác họa nên một nỗi buồn bơ vơ, bế tắc của lòng người trước không gian sông nước mênh mông, rợn ngợp, hoang vắng. a, Hai câu thơ đầu: – Câu thơ mở đầu nhắc lại nhan đề “tràng giang” với cách điệp vần “ang”: gợi sự ngân vọng vang xa cổ kính. – Từ láy “điệp điệp”, “song song”: Khung cảnh sông nước gắn với tâm trạng buồn da diết, khôn nguôi. – Hình ảnh: + “Sóng”: gợi lên từng đợt như những nỗi buồn chồng chéo trong tâm trạng. + “Thuyền” và “nước”: vốn luôn giao hòa nhưng trong câu thơ này lại lạc điệu, li cách. b, Câu thơ thứ ba: – Hình ảnh: “thuyền” và “nước” lặp lại từ câu thơ trên nhưng vẫn không hề có sự đồng điệu mà còn tan tác hơn với nghệ thuật đối “thuyền về” >< “nước lại”. – Từ ngữ trực tiếp miêu tả cảm xúc “sầu trăm ngả”: nỗi buồn từ trong lòng người lan rộng ra khắp cảnh vật, đất trời. c, Câu thơ cuối: – Hình ảnh độc đáo “củi một cành khô lạc mấy dòng: sự trôi nổi, bấp bênh của thân phận cỏ cây hay cũng là của số kiếp con người giữa cuộc đời sóng gió trăm ngả. – Nghệ thuật đảo ngữ và đối lập: tăng sức gợi hình, gợi cảm và giá trị biểu đạt cho câu thơ. 2. Khổ 2 bài Tràng Giang “Lơ thơ cồn nhỏ gió điều hiu Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiề Nắng xuống, trời lên sâu chót vót Sông dài, trời rộng, bến cô liêu” Huy Cận đã khắc họa một bức tranh thiên nhiên tràng giang mở rộng ra đến bến bờ, trời đất. Từ không gian ấy, ta nhận ra sự ám ảnh về cái vô biên và sự trống trải tuyệt đối của cảnh vật và lòng người. a, Hai câu thơ đầu: – Từ ngữ: + Khổ thơ bắt đầu bằng một câu thơ với hai từ láy gợi hình “lơ thơ” và “đìu hiu”: gợi tả nỗi buồn và sự nhỏ nhoi, thưa thớt, lạnh lẽo. + Từ phiếm chỉ “đâu” kết hợp với âm thanh “tiếng làng xa” có hai cách hiểu: - Âm thanh rất nhỏ, rất khẽ của phiên chợ chiều đã vãn vọng về từ một nơi xa không xác định. - Không có âm thanh tiếng chợ chiều. - Dù là cách nào thì khung cảnh tràng giang đều hiện lên mênh mông, vắng vẻ, hiu hắt. – Hình ảnh: được mở rộng ra so với khổ thơ trước. Bức tranh thiên nhiên ở đây không chỉ có mênh mông sông nước mà còn có cồn nhỏ, có gió thổi, có xóm làng, có nắng chiều, có trời cao nhưng vẫn toát lên vẻ hiu quạnh, lặng ngắt. Những dấu hiệu của cuộc sống xuất hiện như những nốt nhạc cao hiếm hoi giữa bản đàn trầm buồn triền miên. Nó càng tô đậm thêm nỗi cơ đơn của con người. b, Hai câu thơ cuối: – Hình ảnh “nắng xuống”, “trời lên”, “sông dài”, “trời rộng”, “bến cô liêu” đã vẽ nên một không gian rộng mênh mông, vô cùng, vô tận ở mọi sự vật, mọi chiều kích. – Những tính từ gợi cảm xúc: “sâu chót vót”, “bến cô liêu” là sáng tạo đặc biệt của Huy Cận. - Không gian mở rộng ra ba chiều: sâu thăm thẳm, cao chót vót, rộng mênh mông. 3. Phân tích khổ thơ thứ 3 “Bèo dạt về đâu hàng nối hàng Mênh mông không một chuyến đồ ngan Không cần gợi chút niềm thân mật Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng” Nhà thơ lại nhìn lại về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì quen thuộc mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào giá lạnh, cô đơn. Nhưng thiên nhiên đã đáp trả sự khao khát ấy bằng những hình ảnh càng quạnh quẽ, đìu hiu và lòng người lại rợn lên những lẻ loi, trống vắng. * Hình ảnh: – Hình ảnh thực “bèo dạt về đâu hàng nối hàng”: những cánh bèo trôi nổi, phiêu dạt trên sông nước gây ám ảnh về số phận lạc lõng, cô đơn, vô định của con người trên dòng đời vô tận. – Hình ảnh mong ước: con người mong muốn tìm tới những hình ảnh gần gũi, thân quen với cuộc sống trước cái vô cùng của vũ trụ. Đó là một chuyến đồ ngang qua lại, là một chiếc cầu nối đôi bờ xa cách. Mong ước có phần nhỏ bé, bình dị. * Từ ngữ: Phó từ phủ định “không” lặp đi lặp lại gắn với những hình ảnh mong ước của tác giả khiến cho những mong ước ấy dẫu bình dị, bé nhỏ cũng trở nên vô vọng. Cảnh vật lại rơi vào hoang vắng, lạnh lẽo. Con người lại rợn ngợp, lẻ loi giữa “bờ xanh tiếp bãi vàng”. 4. Khổ thơ cuối bài Tràng Giang “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa Lòng quê dợn dợn vời con nước Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.” Bài thơ mở ra bằng tiếng sóng trên sông nước, kết thúc bằng tiếng sóng trong tâm hồn con người. Cảnh vật vẫn đìu hiu và quạnh vắng. Con người bởi thế mà trở trăn với bao nỗi niềm. Đó là nỗi niềm nhớ quê hương khi đang đứng giữa quê hương, nhưng quê hương đã không còn. Đây là nét tâm trạng chung của nhiều nhà thơ mới lúc bấy giờ, một nỗi lòng đau xót trước cảnh mất nước. * Hai câu thơ đầu: – Hình ảnh: thiên nhiên hùng vĩ với “mây cao” xếp thành nhiều tầng tạo nên liên tưởng về dãy “búi bạc” khổng lồ, với cánh chim nhỏ cô đơn, nhỏ bé và bóng chiều bao phủ, sà xuống trùm lên mọi cảnh vật. – Từ ngữ + “đùn”: khiến mây như chuyển động, có nội lực từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn ra mãi. Đây cũng là một nét thơ đầy chất hiện đại, bởi nó đã vận dụng sáng tạo từ thơ cổ điển quen thuộc. + “nghiêng”: bóng hoàng hôn dường như sa suống quá nhanh khiến cho cánh chim phải nghiêng lệch để bay về phía trời xa xăm. * Hai câu thơ cuối – Từ láy “dợn dợn” là một sáng tạo của Huy Cận, chưa từng thấy trước đó. Từ láy này hô ứng cùng với cụm từ “vời con nước” cho thấy một nỗi niềm bâng khuâng, cô đơn của “lòng quê”. III. Kết bài Bài thơ Tràng Giang là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của nhà thơ Huy Cận, được viết năm 1939 lấy cảm xúc từ không gian mênh mang của sông Hồng, bài thơ được in trong tập thơ “Lửa thiêng”.
Tài liệu đính kèm:
- giao_an_ngu_van_lop_11_dan_y_trang_giang.docx