Thuyết minh bài giảng Ngữ văn Lớp 11 - Văn bản "Chí Phèo"
SL7:
Nói đến Nam Cao không thể không nhắc đến TP Cpheo. Thiên truyện được viết khi nhà văn mới 24 tuổi nhưng bằng tài năng và tấm lòng ưu ái của mình NC đã phác họa lên một bức tranh sinh động về làng quê VN vào những năm 1930-1945- Cái làng quê vất vả nhọc nhằn, con người bị đầy đọa, bị đẩy đến tình trạng phi nhân tính do sự bóc lột, thống trị của TDPK, để rồi qua bức tranh hiện thực ấy nhà văn đã bày tỏ niềm thương cảm sâu sắc trước số phận đau khổ của người nông dân; phát hiện và miêu tả phẩm chất tốt đẹp của họ ngay khi tưởng như họ bị biến thành thú dữ và niềm tin vào bản chất lương thiện của con người.
CP là kết tinh những thành công của NC trong đề tài người nông dân và là kiệt tác trong nền văn xuôi VN trước CM. CP cùng với ĐT, LH đã được chuyển thể thành kịch bản ĐẢ Làng Vũ Đại ngày ấy- một bộ phim nổi tiếng được xếp vào hàng những TP kinh điển của ĐẢVN TK XX.
SL8: Giới thiệu chung
NC là nhà văn tài năng xuất sắc nhưng lại có cuộc đời ngắn ngủi và đời sống văn nghệ thật ít ỏi. Tuy nhiên, NC đã được định vị trong lịch sử văn học như 1 nhà văn lớn. Nói như GS Phong Lê: “Nếu chỉ tính thế hệ thành danh trước 1945 thì NC là người duy nhất hy sinh ở tuổi 36 và tuổi nghề chỉ trên 10 năm. 10 năm-một sự nghiệp gắn nối hai giai đoạn trước và sau 1945; cả 2 kết thành một bức phù điêu bất hủ trong lịch sử văn chương Việt Nam hiện đại”
Bản thuyết trình SL7: Nói đến Nam Cao không thể không nhắc đến TP Cpheo. Thiên truyện được viết khi nhà văn mới 24 tuổi nhưng bằng tài năng và tấm lòng ưu ái của mình NC đã phác họa lên một bức tranh sinh động về làng quê VN vào những năm 1930-1945- Cái làng quê vất vả nhọc nhằn, con người bị đầy đọa, bị đẩy đến tình trạng phi nhân tính do sự bóc lột, thống trị của TDPK, để rồi qua bức tranh hiện thực ấy nhà văn đã bày tỏ niềm thương cảm sâu sắc trước số phận đau khổ của người nông dân; phát hiện và miêu tả phẩm chất tốt đẹp của họ ngay khi tưởng như họ bị biến thành thú dữ và niềm tin vào bản chất lương thiện của con người. CP là kết tinh những thành công của NC trong đề tài người nông dân và là kiệt tác trong nền văn xuôi VN trước CM. CP cùng với ĐT, LH đã được chuyển thể thành kịch bản ĐẢ Làng Vũ Đại ngày ấy- một bộ phim nổi tiếng được xếp vào hàng những TP kinh điển của ĐẢVN TK XX. SL8: Giới thiệu chung NC là nhà văn tài năng xuất sắc nhưng lại có cuộc đời ngắn ngủi và đời sống văn nghệ thật ít ỏi. Tuy nhiên, NC đã được định vị trong lịch sử văn học như 1 nhà văn lớn. Nói như GS Phong Lê: “Nếu chỉ tính thế hệ thành danh trước 1945 thì NC là người duy nhất hy sinh ở tuổi 36 và tuổi nghề chỉ trên 10 năm. 10 năm-một sự nghiệp gắn nối hai giai đoạn trước và sau 1945; cả 2 kết thành một bức phù điêu bất hủ trong lịch sử văn chương Việt Nam hiện đại” SL9: Tác giả Cùng với N.Trãi , Ndu, NĐC thuộc giai đoạn VHTĐ, HCM, T.Hữu, XD thuộc gđ VHHĐ, NC bước vào nhà trường PT với một khuôn mặt khá đậm nét, 1 tư cách nhà văn NĐCN,sâu sắc, t,biểu cho những giá trị tinh thần cao cả nhất của dan tộc VN SL10: Tiểu sử Nam Cao (1915 – 1951) là bút danh của nhà văn - nhà báo - liệt sĩ Trần Hữu Tri. Ông sinh ra trong một gia đình nông dân tại làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, nay thuộc Hòa Hậu, Lí Nhân, Hà Nam (cách thành phố Nam Định chừng hơn 10 km). Học xong thành chung, Nam Cao bôn ba nhiều nơi, nhưng bệnh tật đẩy ông về quê. Từ đó, Nam Cao sống chật vật bằng nghề dạy học và viết văn. Năm 1943 , ông vào Hội Văn hoá cứu quốc. Tham gia Tổng khởi nghĩa ở quê hương, ông được cử làm chủ tịch xã. Sau Cách mạng, với tư cách phóng viên - Nam Cao có mặt trong đoàn quân Nam tiến, rồi lên chiến khu Việt Bắc làm công tác văn nghệ. Cuối tháng 11 năm 1951, trên đường đi công tác vào vùng địch tạm chiếm, Nam Cao anh dũng hi sinh tại làng Vũ Đại, huyện Gia Viễn, Ninh Bình, khi tài năng đang nở rộ. SL12: Con người Những ai từng sống, chiến đấu với Nam Cao đều thấy rõ ba đặc điểm trong tích cách của ông. Nhìn bề ngoài, Nam Cao có phần vụng về, ít nói, lạnh lùng nhưng nội tâm thì luôn luôn sôi sục, căng thẳng. Trong ông thường diễn ra xung đột gay gắt giữa “lòng nhân đạo và thói ích kỷ, giữa tinh thần dũng cảm và thái độ hèn nhát, giữa tính chân thực với sự giả dối, giữa khát vọng cao cả với mong muốn tầm thường”. Các trang viết về tri thức nghèo thể hiện rất rõ đặc điểm trên đây trong con người Nam Cao. Nam Cao sống ân tình với người nghèo khổ, bị áp bức, khinh miệt. Ông cho rằng: không có tình thương thì không xứng đáng được gọi là Người. Trước Cách mạng, Nam Cao mang nặng tâm sự u uất của một trí thức tài cao phận thấp, nhưng không khinh bạc, “ngất ngưởng” như Nguyễn Tuân... Trong bất cứ hoàn cảnh nào, ông cũng giữ trọn tấm lòng nhân hậu, hiền hòa. Không nỡ ăn bát cơm ngon dành riêng cho mình, Nam Cao muốn chia đều cho cả nhà... Vì vậy, viết về người nghèo, ngòi bút Nam Cao lúc nào cũng tràn đầy niềm xót thương, cảm thông... Ông luôn luôn trăn trở, suy tư về bản thân và cuộc sống. Vì thế, từ những chuyện nhỏ nhặt, thường ngày, Nam Cao nêu được nhiều vấn đề xã hội lớn lao, nhiều bài học triết lý sâu sắc. Với mình thì khiêm nhường, với người thì trân trọng. Đánh giá văn học thời kì đầu kháng chiến chống Pháp, ông viết “Nguyễn Huy Tưởng dẫn đầu ... Tố Hữu, Kim Lân thứ nhì; Nam Cao bét, bởi vì xét ra vẫn cũ...” Ba đặc điểm trên đây ảnh hưởng nhiều đến phong cách sáng tác của Nam Cao. Là cây bút xuất sắc của dòng văn học hiện thực (1940 - 1945), là người đi tiên phong trong việc xây dựng nền văn học mới, Nam Cao được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt 1,1996). SL13: Quan điểm nghệ thuật Sinh thời, Nam Cao thường suy nghĩ về vấn đề “sống và viết”. Sự nghiệp của ông bắt đầu bằng các trang văn lãng mạn. Lúc này, quan điểm sáng tác lãng mạn ảnh hưởng đến Nam Cao khá rõ. Nhưng rồi, tác giả nhận ra: văn chương lãng mạn có phần xa lạ với đời sống lầm than, nhà văn lãng mạn thoát li không ưa sự thật; âm điệu ảo não, thất tình tràn đầy các trang sách của họ. Sau bao trăn trở, khi nhận ra: “nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối”, Nam Cao khước từ chủ nghĩa lãng mạn để coi trọng nghệ thuật hiện thực vị nhân sinh. Trong thời kì này, “Trăng sáng” (1943) được xem là một tuyên ngôn nghệ thuật. Truyện ngắn trên đánh dấu bước trưởng thành của Nam Cao về quan điểm sáng tác. Nó thể hiện cuộc đấu tranh day dứt của nhà văn Điền trước hai lối viết, hai cách sống (mơ mộng hay thực tế; lãng mạn hay hiện thực ...). Qua Điền, Nam Cao thiết tha khẳng đinh: “nghệ thuật có thể chỉ là tiếng kêu đau khổ kia toát ra từ những kiếp lầm than”. Vì thế, văn nhân không được “trốn tránh” sự thật, mà “cứ đứng trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động của đời”. Sau “Trăng sáng”, Nam Cao là nhà văn hiện thực – người thư kí trung thành của thời đại. Với quan niệm “chỉ tả được cái bề ngoài của xã hội”, văn chương sẽ không có giá trị, ông nghĩ: viết thì “rất cần sự thực”. Từ những việc nhỏ nhoi, xoàng xĩnh, người sáng tác phải nêu được những vấn đề có ý nghĩa xã hội. Tác phẩm văn học có giá trị phải thể hiện nội dung nhân đạo sâu sắc, “chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bằng Nó làm cho người gần người hơn” (Đời thừa). Trước Cách mạng, Nam Cao đã coi trọng đôi mắt tình thương và khẳng định: nhà văn phải là nhà nhân đạo. Qua “Trăng sáng”, “Đời thừa”,... ông muốn văn học phản ánh cuộc đời của tầng lớp sống dưới đáy xã hội. Từ bi kịch của Hộ, Nam Cao khuyên nhà văn tạm thời hi sinh nghệ thuật đề giữ lối sống nhân đạo. Hơn ai hết, Nam Cao coi nghề văn là nghề sáng tạo, nhà văn là nhà sáng tạo. Đành rằng, làm nghề gì cũng phải sáng tạo, nhưng yêu cầu này đối với các tác gia nghệ thuật khắt khe hơn nhiều. Trong cuộc sống, sáng tạo là làm ra những sản phẩm tinh thần, vật chất chưa từng có; nhà văn phải biết tìm tòi, “khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có”... Đối lập với sáng tạo là sự cẩu thả -cẩu thả trong nghề văn chẳng những “bất lương” mà còn “đê tiện”. Nam Cao đã thực hiện ba quan điểm trên trong từng trang sách. Ông không chỉ xây dựng được những tính cách điển hình vô tiền khoáng hậu (trước chưa có, sau chưa thấy) mà còn là người đầu tiên phản ánh sâu sắc hiện tượng nông dân lương thiện tha hóa thành quỷ giữ, trí thức tài năng vật lộn với bi kịch tinh thần nhằm bảo vệ nhân cách. Trước Cách mạng tháng Tám, Nam Cao sáng tác theo quan điểm hiện thực phê phán. Tuy vậy, nhiều trang viết của ông đã hé lộ nhân tố mới (Chí Phèo thức tỉnh, giết bá Kiến). Sau 1945, đặc biệt là từ kháng chiến chông Pháp, ông nêu quyết tâm: “sống đã rồi hãy viết”. “Sống” là cầm súng chiến đấu giải phóng dân tộc, sẵn sàng làm anh “tuyên truyền viên nhãi nhép” đem ngòi bút phục vụ công nông binh (Đôi mắt; Ở rừng). Ông vui vẻ nhận ra “góp sức vào công việc không nghệ thuật lúc này chính là để sửa soạn cho tôi một nghệ thuật cao hơn”. Quan điểm tiến bộ trên đây giúp Nam Cao thành nhà văn cách mạng, nghệ sĩ chân chính của thời đại. SL14: Các đề tài chính Trước 1945, tài năng Nam Cao kết tinh trong gần 60 truyện ngắn, một truyện vừa (Chuyện người hàng xóm), và tiểu thuyết Sống mòn. Tác phẩm của ông chủ yếu xoay quanh hai đề tài: người tri thức nghèo và nông dân bần cùng. Ở đề tài thứ nhất, ấn tượng hơn cả là: - Những truyện không muốn viết (1942) - Trăng sáng (1943) - Đời thừa (1943) - Quên điều độ (1943) -Sống mòn (tiểu thuyết - 1944). Qua các trang viết trên, Nam Cao miêu tả sâu sắc tấn bi kịch tinh thần của người tri thức nghèo trong xã hội cũ. Đó là những “giáo khổ trường tư”, nhà văn túng quẫn, viên chức nhỏ - nghèo... Qua họ, ông nêu lên nhiều triết lí sâu sắc, có ý nghĩa xã hội to lớn. Trí thức trong sáng tác của Nam là những người có tài năng, tâm huyết, biết tự trọng và ôm ấp hoài bão lơn lao (xây dựng một sự nghiệp tinh thần cao quý) nhưng không thực hiện được vì nạn áo cơm ghì sát đất. Hộ thiết tha viết tác phẩm ăn giải Nô-ben; Thứ mong muốn được đóng góp công sức làm đổi thay nền giáo dục để xã hội công bằng. Vậy mà cả hai đều bị dồn vào tình trạng “chết mòn”, phải sống như “một kẻ vô ích, một người thừa”. Qua đề tài này, Nam Cao phê phán xã hội cũ giết chết tài năng, tàn phá tâm hồn nghệ sĩ. Ông cũng thể hiện thành công quá trình người trí thức tự đấu tranh, khắc phục mặt hạn chế, vươn lên giữ lối sống đẹp. Ở đề tài thứ hai, Nam Cao viết chừng hai mươi truyện ngắn phản ánh cuộc đời tăm tối, số phận bi thảm của người nông dân; tiêu biểu là: - Chí Phèo (1941) - Trẻ con không được ăn thịt chó (1942). - Lão Hạc (1943) - Một bữa no (1943) - Một đám cưới (1944) Trong đó,”Chí Phèo” xứng đáng là kiệt tác. Viết về đề tài này, Nam Cao khắc họa bức tranh chân thực về nông thôn Việt Nam xơ xác , bần cùng trong khoảng thời gian 1940 -1945. Ông đặc biệt quan tâm tới tình trạng nghèo đói và quá trình một bộ phận thấp cổ bé họng bị tha hóa, bị cự tuyệt quyền làm người. Càng hiền lành họ càng bị chà đạp phũ phàng. Viết về nông dân, Nam Cao kết án đanh thép xã hội thực dân phong kiến đã huỷ hoại nhân hình, sói mòn nhân tính của những con người lương thiện. Không “bôi nhọ” nông dân, ông đi sâu vào nội tâm nhân vật để phát hiện, khẳng định nhiều phẩm chất cao cả của những người bị xã hội dập vùi. Đó là hai đề tài quen thuộc, nhưng vì biết khơi những nguồn chưa ai khơi, Nam Cao vẫn tạo được sự hấp dẫn. Viết về nông dân hay trí thức, sáng tác của Nam Cao luôn luôn thể hiện nỗi băn khoăn day dứt trước số phận con người và thường lấy nguyên mẫu từ quê hương, bản thân. Sáng tác của ông chứa đựng nội dung triết học sâu sắc. Sau Cách mạng, Nam Cao vẫn tiếp tục viết về nông dân, trí thức với “đôi mắt” mới. SL12: Phong cách nghệ thuật Phong cách nghệ thuật của nhà văn là những đặc điểm nội dung, hình thức riêng bào trùm toàn bộ sáng tác của họ. Trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại, Nam Cao là cây bút có phong cách độc đáo. Viết về nông dân hay trí thức, Nam Cao quan tâm tới đời sống tinh thần của họ và đặc biệt hứng thú với việc khám phá “con người trong con người” (sau vẻ bề ngoài của Chí Phèo, thị Nở, lang Rận... còn có một con người khác mà chỉ những ai cố công tìm hiểu mới phát hiện được) Ông quan niệm “bản tính cốt yếu của sự sống là cảm giác và tư tưởng” (Sống mòn). Cảm giác, tư tưởng càng sâu sắc, linh diệu thì sự sống càng cao. Vì thế, Nam Cao đặc biệt chú ý tới chiều sâu bên trong của con người, coi đó là nguyên nhân của hành động. Với quan niệm về con người như thế, Nam Cao có khuynh hướng tìm vào nội tâm. Ông có sở trường và biệt tài diễn tả, phân tích tâm lý. Nội tâm nhân vật thành trung tâm chú ý, đối tượng trực tiếp của ngòi bút Nam Cao. Ông đặc biệt sắc sảo khi thể hiện những quá trình tâm lý phức tạp (quỷ dữ thức tỉnh; hiện tượng dở say dở tỉnh; cá tính chấp chới giữa thiện - ác, hiền - dữ, người - vật Để đi vào chiều sâu không cùng của nội tâm, Nam Cao thường sử dụng những đoạn độc thoại nội tâm chân thật, sinh động. Mặt khác, trong kết cấu - ông thường đảo lộn trật tự thời gian, không gian, tạo nên kiểu kết cấu tâm lý phóng khoáng, linh hoạt mà vẫn nhất quán, chặt chẽ. Về đề tài, ngòi bút Nam Cao cũng quan tâm đến “Những chuyện không muốn viết” - chuyện nhỏ nhặt, thường ngày. Từ đó, ông đặt ra những vấn đề xã hội, con người, cuộc sống và nghệ thuật chân chính. Kể chuyện bằng ngôi thứ nhất hay thứ ba, Nam Cao vẫn là nhà văn có giọng điệu riêng: - Triết lí, mỉa mai, chua chát; - Dửng dưng, lạnh lùng mà tràn đầy thương cảm, đằm thắm, thiết tha SL13: Tiểu kết Hi sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc khi mới 37 tuổi, Nam Cao chưa biết ông được tôn vinh là nhà văn lớn. Hơn nửa thế kỉ đã qua đi, tác phẩm của Nam Cao càng khẳng định giá trị hiện thực sâu sắc, tư tưởng nhân đạo cao cả và vẻ đẹp nghệ thuật điêu luyện, độc đáo. SL14: Tác phẩm Xh trên văn đàn khi trào lưu HTCN đã đạt được những thành tựu xuất sắc, nhưng NC chính là người đưa lên đỉnh cao và kết thúc vẻ vang trào lưu này.NC ý thức sâu sắc rằng:” Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có.” Và NC đã thực sự tìm được cho mình một hướng đi riêng trong việc tiếp cận và phản ánh hiện thực. Cp ra đời năm 1941đã đánh dấu tên tuổi NC. SL15: Hoàn cảnh sáng tác Dựa vào người thật việc thật ở làng Đại Hoàng, nhà văn đã hư cấu thêm để viết nên TP. CP đã có sức tố cáo bộ mặt vô nhân của xã hội và phản ánh bế tắc cùng cực của người nông dân. Đã hơn nửa thế kỷ trôi qua những trang viết sâu sắc tình người vẫn sống mãi. SL16: Nhan đề Ban đầu tác phẩm có tên là Cái lò gạch cũ. Nhan đề này gắn liền với chi tiết cái lò gạch cũ ở phần đầu truyện- nơi người ta nhặt được Chí “trần truồng, tím ngắt trong cái váy đụp”- và ở phần cuối truyện-khi Thị Nở nhìn xuống bụng mình, mơ hồ lo lắng cho sự ra đời của một CP con. Ý nghĩa của chi tiết cái lò gạch cũ ko chỉ là biểu trưng cho h/ả làng xã VN , cho cuộc sống quẩn quanh , bế tắc của người nông dân mà còn là biểu tượng có tính quy luật, tất yếu về hiện tượng CP. Khi được in, NXB Đời mới đã tự ý đổi tên TP thành Đôi lứa xứng đôi-Nhan đề này thiên về mối quan hệ giữa 2 nhân vật CP-TN và có liên quan đến một câu trong truyện”Chúng sẽ làm thành một cặp rất xứng đôi”. Mục đích của NXB muốn câu khách, tạo sự giật gân, gợi trí tò mò của độc giả đến một mối tình lãng mạn nào đó-chủ đề rất ăn khách trong văn chương VN những năm 1930-1945. Nhưng nhan đề này làm cho thiên truyện xa lạ với tâm huyết của tác giả. Khi TP được in lại trong tập Luống cày(1946) NC đổi tên lại là CP. NC muốn người đọc tập trung vào chính nhân vật CP, vào quá trình lưu manh hóa và quá trình thức tỉnh cũng như sự nghiệt ngã mà số phận dành cho nhân vật này. Đẻ rồi từ đó CNHT,CNNĐ trong TP được toát lên từ chính cuộc đời đau khổ của nhân vật. SL17: Tóm tắt Làm video CP nguyên là một đứa con hoang bị bỏ rơi khi vừa lọt lòng trong một cái lò gạch cũ bỏ không. Được người ta nhặt về nuôi. Lớn lên đi ở hết nhà này sang nhà khác. Năm 20 tuổi hắn làm canh điền cho nhà Lí Kiến. LK ghen với anh canh điền trẻ trai hay được bà Ba gọi lên bóp chân,xoa bụng, đấm lưng gì đấy Thế là một hôm, hắn bị bắt giải lên huyện và phải đi ở tù. Sau 7,8 năm biệt tích, hắn trở về bộ dạng khác hẳn ngày trước. Vừa về đã say khướt, cầm vỏ chai đến cổng nhà BK-bây giờ LK đã là Bá hộ, nghị viên, tiên chỉ làng VĐ-chửi bới, rạch mặt ăn vạ. Lão BK khôn róc đời đã sử nhũn với hắn. Với những kẻ “cố cùng liều thân” này chính sách của hắn là “trị ko lợi thì dùng”, “dùng những thằng đầu bò để trị những thằng đầu bò”. Thế là chỉ một bữa rượu, một đồng bạc, CP hả hê ra về và trở thành chỗ ddaaayf tớ tay chân của lão dể khi lão cần đến chỉ cho nó dăm hào uống rượu, là có thể sai nó tác hại bất cứ anh nào ko nghe mình.Từ đó Cp luôn luôn say. Hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm va trở thành con quỷ dữ của làng VĐ để tác quái cho bao dân làng. Cuộc đời hắn cứ thế trôi đi Một đêm trăng rười rượi, trong một cơn say, CP gặp TN –người đàn bà xấu xí, ngẩn ngơ bị mọi người hắt hủi. Họ ân ái với nhau. Nửa đêm CP đau bụng, rồi nôn mửa. Sáng hôm sau, tỉnh dậy hắn bâng khuâng buồn. Tiếng chim hót, tiếng mái chèo đuổi cá, tiếng nói chuyện của mấy người đi chợ về làm hắn nhớ lại có một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải..Hắn thấm thía nhận ra tình cảnh trơ trọi khốn khổ của mình.Thị nở đến và bưng đến cho hắn nồi cháo hành bốc hơi. Hắn cảm động vì đây là lần đầu tiên được chăm sóc bởi tay một người đàn bà. Nhớ lại khi xưa, những lần cái bà ba quỉ cái gọi hắn lên bóp chân, hắn chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì. Hắn bỗng thấy thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mowr đường cho hắn. Nhưng khi TN về xin ý kiến bà cô già của thị thì bà gào lên: Ai lại đi lấy thằng CP, thằng chỉ có 1 nghề là rạch mặt ăn vạ. Bị từ chối, CP lại uống rượu và ôm mặt khóc rưng rức, rồi như mọi lần, lại xách dao ra đi, vừa đi vừa chửi. Cuối cùng CP đến nhà BK, chỉ tay vào mặt lão: Tao muốn làm người lương thiện!...Ai cho tao lương thiện Tao ko thể làm người lương thiện nữa chỉ còn 1 cách Và hắn rút dao đâm chết BK, sau đó hắn cũng đâm cổ tự sát. SL18: Đọc hiểu văn bản CP là 1 truyện ngắn mà dung lượng hienj thực được p.á ở trong trạng thái dồn nén, chứa nhiều mâu thuẫn, với nhiều nhân vật, có nhiều lớp nghĩa , mang tầm vóc của một tiểu thuyết . Cta có thể tìm hiểu tp qua việc phân tích từng mối quan hệ giữa nv chính CP với làng VĐ và 1 số nv quan hệ trực tiếp BK, TN. SL19: Hình ảnh làng Vũ đại Làng VĐ là không gian nght của truyện, nơi các nhân vật sống và hoạt động. Nơi mâu thuẫn giai cấp gay gắt, âm thầm mà quyết liệt, không khí tối tăm, ngột ngạt giữa nội bộ bọn cường hào, là mâu thuẫn đối kháng giữa bọn địa chủ cường hào thống trị với người nông dân lao động lương thiện bị áp bức bóc lột, đặc biệt Sp-con đường đời của CP đã p/á hiện thực mang tính quy luật trong xã hội cũ. Có thể nói, làng VĐ chính là h/ả thu nhỏ, điển hình của xã hội nông thôn VN đương thời. SL20: Hình tượng nhân vật Bá Kiến Bản lĩnh của 1 nhà văn và khả năng nhận thức sâu sắc thực tại xã hội đã giúp NC phac họa chân dung của giai cấp bóc lột một cách đầy đủ nhất so với các nhà văn đương thời. SL21: Lai lịch BK được đặt vào một vị trí trang trọng trong xã hội, khi nhà văn phác họa nên một lai lịch của một kẻ già dời trong nghề bóc lột: gia đình 4 đời làm tổng lý, bản thân BK từng làm lý trưởng, chánh tổng; cha truyền con nối trong thủ đoạn đè đầu cưỡi cổ người khác. Những kẻ như thế vẫn được gọi bằng ông , bằng cụ một cách tôn kính. Uy quyền của BK ko chỉ bó hẹp trong phạm vi một làng, mà cụ bá là bá hộ, chánh hội đồng kỳ hào, bắc kỳ nhân dân đại biểu- đại biểu cho cả một bộ máy thống trị tay sai thực dân. Một nhân vật như thế, ko thể là một kẻ hợm hĩnh và ngu dốt như Nghị Quế(Tắt đèn-Ngô Tất Tố) hay chỉ có tàn bạo và tham lam như Nghị Lại( Bước đường cùng-Nguyễn Công Hoan) SL22: Bản chất NC đã phác họa bản chất BK bằng những chi tiết khó quên từ bên ngoài đến bên trong: Cụ bá có tiếng quát rất sang để nắn gân người khác, cụ có nụ cười Tào tháo giòn giã và bản thân cụ cũng tự hào hơn đời cái tiếng cười ấy. Nhưng điều nguy hiểm nhất ở BK là tội ác đã được hắn nâng lên thành một nghệ thuật cai trị kẻ khác : mềm nắn rắn buông, dùng thằng đầu bò trị thằng đầu bò, trị ko lợi thì cụ dùng, hãy xem cách cụ bá xuất hiện ở cảnh Chí đến ăn vạ: Thoáng nhìn qua cụ đã hiểu ngay cơ sự, cụ tìm cách đuổi khéo giải tán đám đông, rồi tìm cách mua chuộc dụ dỗ Chí.Đáng sợ nhất là chính những nạn nhân của BK lại bị hắn biến thành công cụ đắc lực của tội ác: Năm Thọ, Bing Chức- với bản tính lưu manh và đỉnh điểm là CP đã thành con quỷ dữ của làng VĐ- bản chất xảo quyệt, lọc lõi, đáng sợ của BK được NC thể hiện thật sinh động và sắc nét. SL23: Nhân cách Bên trong vẻ sang trọng là một con quỷ dâm ô, có tới 4 bà vợ mà còn đi cướp vợ người- khi còn làm lý trưởng đã ko bỏ lỡ cơ hội ve vãn vợ Binh Chức. Đã thế cụ còn ghen tuông với tất cả trai trẻ trong làng cụ có ý định bỏ tù hết bọn họ. và CP đã phải đi ở tù đên 7-8 năm chỉ vì được bà Ba để mắt. Sl 24: Tiểu kết BK tiêu biểu cho bộ mặt tàn ác xấu xa của bọn cường hào, địa chủ ở nông thôn VN lúc bấy giờ nhưng hắn còn đáng sợ hơn bởi hắn là một tay địa chủ gian hùng, một lão cáo già khôn róc đời, một kẻ nham hiểm đầy thủ đoạn. NC đã xây dựng chân dung nhân vật BK chủ yếu thông qua các yếu tố mánh khóe, tiểu xảo của y. SL 25: Bài học cuộc sống Ỏ n/v BK: Bài học được rút ra từ cách BK ứng phó với tình huống CP đến ăn vạ là kỹ năng xử lý tình huống trong cuộc sống- lúc cần cứng rắn, lúc lại phải mềm mỏng ( ta thường nói là lúc cương lúc nhu) phù hợp với từng đối tượng, hoàn cảnh để có thể đạt được mục đích. SL26: Hình tượng nhân vật Chí Phèo Nếu BK là n/v đại diện cho tầng lớp thống trị thì CP là hiện tượng có tính quy luật của một bộ phận nông dân bị xô đẩy vào con đường tha hóa, lưu manh hóa trong XH TDPK đương thời. Sl27: Lai lịch CP sinh ra là một đứa trẻ vô thừa nhận, một buổi sáng một anh đi thả ống lươn bắt gặp đứ bé trần truồng và xám ngắt trong 1 chiếc vấy đụp để bên cái lò gạch cũ bỏ ko. Anh ta đem về cho người đàn bà góa mù. Người này lại bán cho một bác phó cối ko co. Mặc dù bị mua đi bán lại, nhưng ít ra tuổi thơ của CP cũng vẫn được sống trong bàn tay cưu mang của những người lao động. Khi đến tuổi trưởng thành,CP đi làm canh điền cho nhà BK, lúc đó Chí là một anh canh điền khỏe mạnh, hiền lành như đất, chăm chỉ lao động.Chí có ý thức cao về nhân phẩm và lòng tự trọng bị bà Ba bắt bóp chân Chí thấy nhục hơn là thấy thích Chí chỉ có một ước mơ nho nhỏ: chồng cày thuê cuốc mướn vợ dệt vải Như vậy giai có thể nói khởi điểm cuộc đời Chí Phèolà một người nông dân lương thiện. SL28: Cuộc đởi Nhưng vì sao từ 1 con người hiền lành, nhút nhát và có lòng tự trọng, CP lại trở thành một kẻ đâm thuê chém mướn, một con quỷ dữ làng VĐ? SL29: Trước khi gặp Thị Nở Cuộc đời CP trước khi gặp TN, là quá trình bị lưu manh hóa dẫn đến chỗ trở thành công cụ nguy hiểm trong tay BK. SL30: Từ nông dân -> lưu manh Quãng đời lương thiện của CP chấm dứt khi Chí bị giải lên huyện rồi đi ở tù vì sự ghen tuông vu vơ của BK.Nhà tù thực dân- cái nhà tù đã bắt giam người ta lúc lương thiện và thả ra khi trở thành hung ác- đã giết chết cái phần người của Chí, biến Chí thành CP. Sau 7,8 năm biệt tích trở về, Chí hoàn toàn thay đổi. Hắn trở nên xa lạ với dân làng VĐ, và cũng xa lạ với bản thân. Hắn ko còn là người nông dân lao động nữa. Nhân hình bị biến dạng:Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết, cái ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chùy cả 2 cánh tay cũng thế! Trông gớm chết Nhân tính thì hung hăng liều lĩnh, hắn đã trở thành một tên đầu bò chính cống, lúc nào cũng uống rượu say khướt, gây gổ đánh nhau, rạch mặt ăn vạ để kiếm cái ăn, cái uống. SL31: Từ lưu manh -> quỷ dữ Sự tha hóa của CP ko dừng lại ở đó: CP tiếp tục bị BK lợi dụng, biến thành tay sai đắc lực, thậm chí là kẻ thế mạng cho lão. Từ thằng lưu manh giờ CP biến thành con quỷ dữ của làng VĐ. Cái mặt của Chí ko còn là mặt người, giờ nó là mặt của 1 con vật lạ.Hắn sống triền miên trong những cơn say, và làm bất cứ việc gì mà người ta sai hắn làm, hắn gây ra bao tội ác: phá tan bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt bao nhiêu người lương thiện hắn thực sự là một con quỷ dữ, hắn đã bị loại ra khỏi XH loài người, sống kiếp sống tối tăm củ thú vật. SL32: Bị loại khỏi xã hội loài người Mở đầu truyện là h/a hết sức sống động, độc đáo của CP khật khưỡng vừa đi vừa chửi. Nhưng đằng sau cái chân dung gã say rượu chửi lảm nhảm, nếu đọc kỹ còn có thể thấy một cái gì như là sợ vật vã của một linh hồn đau đớn, tuyệt vọng. Ko tiếng chửi của CP ko hẳn là bâng quơ. Hắn chửi trời đén chửi đời rồi chửi ngay tất cả làngVĐ. Và hắn bỗng tức tối khi ko ai lên tiếng cả Trong cơn say, hắn vẫn cảm thấy tuy mơ hồ mà thấm thía nông nỗi khốn khổ của thân phận. Đó là nông nỗi ko có người nào chịu chửi lại hắn. Có nghĩa tất cả mọi người đã dứt khoát ko coi hắn là người. Chửi lại hắn nghĩa là còn thừa nhận hắn là người, là còn bằng lòng giao tiếp, đối thoại với hắn. CP chửi cả làng với hy vọng được người nào đó chửi lại. Những tín hiệu giao tiếp phát đi liên tục đó lại chỉ gặp sự im lặng đáng sợ. Và vẫn chỉ còn lại một mình CP trong sa mạc cô đơn; hắn cứ chửi rồi lại nghe, chỉ cóa ba con chó dữ và một thằng say rượu. SL33: Tiểu kết Với giọng văn lạnh lùng, lối miêu tả ngắn gọn, súc tích, NC đã khắc họa chân thực, sống động chân dung CP-con quỷ dữ làng VĐ. Hình tượng Cp có ý nghĩa điển hình vừa tiêu biểu cho sp cực khổ của người nông dân bị đè nén bóc lột, vừa tiêu biểu cho sự tha hóa phổ biến trong cái xã hội tàn phá tâm hồn con người- Ngòi bút NC đã đạt tới một sức mạnh phê phán mãnh liệt, sâu sắc ít có. SL34: Bài học cuộc sống Từ sự tha hóa của CP chúng ta có thêm những bài học trong cuộc sống: luôn phải sống có lập trường, có chính kiến, biết cách bảo vệ chính kiến của mình, biết phân biệt đúng sai, phải trái trước những sự dụ dỗ mua chuộc của kẻ xấu. SL35: Sau khi gặp Thị Nở NC khẳng định sức sống bất diệt của thiên lương, cũng như sức mạnh cảm hóa của tình yêu thương: TN người đàn bà xấu đến ma chê quỷ hờn, người đàn bà dở hơi, có dòng giống mả hủi lại là người có tấm lòng vàng, làm thức dậy trong CP cái bản chất đẹp đẽ của người nông dân bị che lấp, vùi dập bao lâu nay vẫn ko tắt. SL36 Từ quỷ dữ ->muốn làm người Vẽ nên h/ả người nông dân lưu manh đầy thú tính, NC ko hề bôi nhọ nông dân mà trái lại, đã đi sâu vào đời sống tâm hồn của n/v để phát hiện và khẳng định nhân phẩm đẹp đẽ của người nông dân ngay trong khi họ bị rạch nát cả bộ mặt người, giết chết tâm hồn người. SL37: Nguyên nhân Cuộc gặp gõ giữa Cp và Tn trong đêm trăng thơ mộng nơi vườn chuối để rồi sau đó là trận ốm lúc nửa đêm cùng tình yêu thương chân thành của TN đã tạo nên sự chuyển biến lớn trong Chí. SL38: Diễn biến tâm lí, tình cảm Cuộc gặp gỡ với TN đã lóe sáng như một tia chớp trong chuỗi ngày tối tăm dằng dặc của CP. Bắt đầu là tỉnh rượu: lần đầu tiên kể từ khi mãn hạn tù trở về Cp hết say, hoàn toàn tỉnh táo để nhận ra căn lều hắn ở, cùng với ánh sáng của một ngày mới, lần đầu tiên CP nhận biết được những âm thanh hàng ngày của cuộc sống: tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, có tiếng nói của người đi chợ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá Cả một đoạn văn được viết bằng giọng điệu trữ tình tha thiết đã khắc họa rõ nét sự hồi sinh của tâm hồn người trong con quỷ dữ làng VĐ thật cảm động. Một cảm giác người đã thức tỉnh lí trí. Sau đó là sự tỉnh ngộ: hắn nhận thức, nhìn nhận lại cuộc đời mình. Hiện tại lay thức lương tâm thành tiếng thở dài não ruột” Chao ôi buồn!” Một nỗi buồn đáng quý, bởi nó đã khơi lại ước mơ giản dị của một thời lương thiện” Hình như có một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn nuôi làm vốn liến. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm.” Chao ôi là buồn! vì mãi mãi cái ước mơ về hạnh phúc nhỏ nhoi ấy ko bao giờ thành hiện thực. Phút lóe sáng của tâm hồn đã giúp n/v ý thức nỗi đau của một kẻ cô đơn giữa đồng loại của mình” Cp hình như đã trông thấy trước tuổi gì của hắn đói, rét, ốm đau và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau” NC đã diễn tả đặc sắc và độc đáo phút bừng thức của n/v, Với sự trở lại của lí trí cùng những cảm xúc rất người Chí đang thức tỉnh và bắt đầu hồi sinh. SL39: Diễn biến tâm lí, tình cảm Khi thấy TN bưng cháo hành đến hắn rất ngạc nhiên, và hết sức xúc động, mắt hình như ươn ướt. Bởi vì lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho. Ngòi bút phân tích tâm lý của NC hết sức tinh tế và nhạy cảm khi mô tả quá trình trở về lại cõi người của CP: bắt đầu từ danh giới mong manh” hình như mắt ươn ươt “ như là giọt nước mắt chào đón cuộc đời mới cho đến khi CP gặp nụ cười TN là lúc t/y bắt đầu lên tiếng-giúp n/v ý thức đầy đủ về quãng đời đã qua. Bát cháo hành trước hết thức tỉnh tính người trong Chí: Hắn thấy bâng khuâng, vừa vui, vừa buồn, vừa như là ăn năn. Rồi tiếp đó là sự thức tỉnh của tình người: Hắn thấy lòng thành trẻ con, hắn muốn làm nũng với Thị Nở, hắn mong muốn có một gia đình vui vẻ, hạnh phúc. Và trên hết cả là sự thức tỉnh khát vọng người. Hắn mong muốn được trở lại làm người lương thiện, hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người. Thị Nở đã cho hắn biết bao khát khao, hi vọng. SL40: Tiểu kết Nam Cao đã nhận thấy trong đáy sâu tâm hồn đen tối cục súc u mê của CP- một kẻ đã bị cuộc đời tàn phá hủy hoại từ nhân hình đến nhân tính- những rung động thật sự của t/y, của niềm khao khát muốn trở lại làm người lương thiện. Có thể nói, việc phát hiện ra cái phần con người còn sót lại trong một kẻ lưu manh, tran trọng những khát khao nhân bản và miêu tả những rung động trong sáng của những tâm hồn tưởng chừng cuộc đời làm cho cằn cỗi u mê đã làm cho NC trở thành một trong số những nhà văn nhân đạo lớn nhất trong nền VHHĐ VN SL41: Bài học cuộc sống Từ sự hồi sinh của CP, chúng ta rút ra bài học nhân sinh:Sống trên đời cần có sự quan tâm, chia sẻ và t/c yth giữa con người với con người. Chính t/y và tình thương sẽ giảm bớt hận thù gìn giữ và nuôi dưỡng nhân tính, thậm chí có sức mạnh cảm hóa con người. Và trong cuộc sống con người trưởng thành và hoàn thiện mình nhờ rất nhiều giá trị trong đó có lẽ phải kể đến đó là giá trị của những ước mơ, ước mơ giúp con người định hướng cuộc đời và vươn tới đỉnh cao của thành công nếu chúng ta sẵn lòng nỗ lực thực hiện chúng. SL42: Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người Tuy nhiên trong cái xã hội phi nhân tính ấy, mong ước được trở lại cuộc sống lương thiện của Chí đã không thành hiện thực. SL43: Nguyên nhân Thị Nở đã không thể giúp hắn: Bà cô TN dứt khoát không cho cháu bà đâm đầu đi lấy cái thằng không cha. Ai lại lấy thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ.Bà ta cũng giống như mọi người quen coi CP là con quỷ dữ từ lâu rồi.Sâu xa hơn BK và cả cái xã hội vô nhân đạo đã không cho những con người như Chí một cơ hội làm lại cuộc đời. SL44 Diễn biến tâm lí, hành động Vậy là TN đã khước từ hắn, con đường làm người lươngg thiện vừa mở ra đã đột ngột đóng sập lại.Chí Phèo rơi vào bi kịch tâm hồn đau dớn-BK của con người không được công nhận làm người. Trong giờ phút tột cùng đau đớn của một người tuyệt vọng, nhà van đã để nhân vật có những khoảnh khắc tâm trạng thật khó quên” Hắn ngẩn người ra rồi chợt hiểu, hắn sửng sốt đứng lên gọi Thị lại Chỗ dựa cuối cùng để Chí tưởng có thể đứng vững trên hành trình
Tài liệu đính kèm:
- thuyet_minh_bai_giang_ngu_van_lop_11_van_ban_chi_pheo.doc